Tính dục thế tục dưới góc nhìn Phật giáo

15/06/2021 10:15 AM

Phật giáo nhìn tính dục ở 2 góc độ: nếu đi với hiểu biết và trí tuệ thì đạt cảm xúc thế tục thăng hoa mãnh liệt; nếu vô minh thì chỉ có sự thèm khát và đau đớn. Nói chung, với đa phần thế tục, đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào thảm cảnh đoạ đày của dục vọng và đau khồ. Nói chung, Phật giáo giữ một thái độ phóng khoáng đối với vấn đề tính dục.

Phật giáo không áp đặt một quy luật nào cho xã hội con người, không hề làm luật cũng không thiết đặt một nền luân lý mang tính tập thể nào cả. Phật giáo hướng vào cá nhân con người, khuyên con người nên chọn cho mình cách sống như thế nào và cách tu tập ra sao để diệt trừ khổ đau và tự giải thoát khỏi những trói buộc của hiện hữu. Vì thế, những lời giáo huấn của Đức Phật có nói đến tính dục, đấy là những lời khuyên bảo mang tính cách cá nhân, tuyệt nhiên không phải là những phán lệnh áp đặt cho toàn thể xã hội con người.

Đức Phật nêu lên khái niệm về Bốn Sự thật Cao quý (Tứ diệu đế) làm nền tảng cho giáo lý của Ngài, nhấn mạnh trước hết đến bản chất khổ đau bàng bạc khắp nơi và không thể nào tránh khỏi (sự thật thứ nhất). Sau đó Ngài giải thích nguồn gốc làm phát sinh khổ đau (sự thật thứ hai), đấy là sự thèm khát, trong đó có sự ham muốn quá độ các lạc thú tính dục; mong muốn tìm được mãi những lạc thú ấy, kể cả sự ham muốn tìm thấy sự huỷ diệt và sự phi hiện hữu.


Tại sao Phật giáo lại kết án sự thèm khát? Vì Phật giáo xem đó là sản phẩm của vô minh - có nghĩa là không hiểu mình và bản chất của sự hiện hữu của chính mình là gì. Tác động của vô minh mang lại một cảm tính về một “cái ngã” tự tại, cảm tính đó được củng cố vững chắc thêm dựa vào các kỷ niệm, thói quen, những thứ tình cảm quen thuộc thường xảy ra trong tâm thức và nhất là sự bám víu vào thân xác của mình.

Thế nhưng tất cả những thứ ấy thật phù du. Vì thế để cưỡng lại sự phù du ấy, ta càng củng cố thêm cảm tính về “cái tôi” trường tồn bằng cách gia tăng thêm những cảm nhận lạc thú và luôn phóng nhìn vào tương lai. Tiếc thay, cách kéo dài và bảo vệ “cái tôi” ấy chỉ hoài công, bởi vì không thể tránh né được quy luật của vô thường. Già nua, bệnh tật và cái chết cho thấy vô thường lúc nào cũng hiển nhiên ra đó.

 

 

Tính dục liên hệ trực tiếp đến sự cảm nhận của thân xác. Thế nhưng thân xác lại là sản phẩm phát sinh từ nghiệp trong quá khứ, tức là hậu quả phát sinh từ các hành động của mình từ trước.

Thân xác thường được ví như một cỗ xe quý giá, một phương tiện đưa đến giác ngộ, thế nhưng thân xác cũng được mô tả như một gánh nặng hay nguyên nhân làm phát sinh dâm dục và mọi thứ lo lắng khác, cản trở đời sống tâm linh của chính mình. Vậy hai cách hình dung ấy có mâu thuẫn với nhau hay không?

Hoàn toàn không! Bởi vì mọi khó khăn đều phát sinh từ sự bám víu do chính mình tạo ra cho thân xác nhưng tuyệt nhiên không phải thân xác tự tạo ra những khó khăn ấy cho nó. Thân xác nhờ có ngũ giác nhận biết được sự tiếp xúc phát sinh từ cảm nhận, dù đấy là sự cảm nhận thích thú, khó chịu hay trung hoà; vì thế thân xác tự nó chỉ là một cửa ngõ tiếp nhận các thứ giác cảm. Trong số đó, giác cảm tính dục là một trong những giác cảm thích thú nhất mà thân xác có thể mang lại cho ta. 

Sự kiện cảm nhận sự thích thú không có gì tệ hại cả, nếu như sự cảm nhận ấy không gây ra sự bám víu và thèm khát quá đáng: tức ham muốn được thích thú nhiều hơn nữa. Vì thế mọi thứ khó khăn xảy ra là do phản ứng của ta đối với sự thích thú, nhưng tuyệt nhiên không phải do chính sự thích thú. 

Tóm lại, sự thèm khát thích thú và muốn tiếp tục được cảm nhận sự thích thú mới chính là nguyên nhân của khổ đau. Sự thèm khát và ham muốn đó làm phát sinh một loạt đủ mọi thứ dục vọng - chiếm giữ, ghen tuông, tức giận, oán hờn - chúng thay nhau hành hạ ta và khiến ta mù quáng. Đấy là các thứ dục vọng gây ra tội lỗi. Thế nhưng tội lỗi phát sinh từ đâu? Từ trong tâm thức của chính mình. 

Điểm then chốt trong giáo lý Phật giáo là thân xác gánh chịu sự kiểm soát của tâm thức. Thân xác và lạc thú tính dục không giữ một vai trò chủ động nào cả. Chính sự bám víu của tâm thức là nguyên nhân làm bùng lên mọi thứ dục vọng, vốn là nguyên nhân của khổ đau. 

Sự thèm khát là động cơ chủ yếu tạo ra các phản ứng trong tâm thức. Dù cho chữ ham muốn (désir, desire trong ngôn ngữ Tây phương) phản ánh khá trung thực ý nghĩa của chữ Phạn “râga”, thế nhưng cũng cần hiểu đối với Phật giáo, chữ râga không hề mang sắc thái tích cực như trong ngôn ngữ phương Tây. Kinh sách định nghĩa chữ râga như sau: “Đấy là sự ham muốn bám víu, có nghĩa vừa là sự bám víu cực mạnh vào sự hiện hữu và các vật thể chiếm hữu khác, vừa là sự thèm muốn do tất cả các thứ ấy tạo ra. Tác động của nó làm phát sinh mọi thứ khổ đau”.

Cách định nghĩa trên đây cho thấy tính cách cảnh giác khía cạnh tiêu cực trong ý nghĩa của sự ham muốn. Thế nhưng trong tư tưởng phương Tây, ham muốn được hiểu như một trạng thái kích thích, thúc đẩy con người hành động; trạng thái ấy trên một khía cạnh nào đó có thể mang lại sự sáng tạo và những phẩm tính thượng thặng, chẳng hạn như sự mong muốn của trời hay của người nghệ sĩ khi sáng tạo; nhưng đồng thời ham muốn cũng có nghĩa là một động lực xô ta vào khổ đau của dục vọng.

Vì thế ý nghĩa chữ ham muốn trong ngôn ngữ phương Tây không được minh bạch, thí dụ như ham muốn tình yêu có thể hiểu như một sự khích lệ, dù rằng hậu quả do sự ham muốn đó mang lại lắm khi chỉ là sự tàn phá. 

Giáo lý Phật giáo luôn chú trọng đến phương pháp phân tích và cho rằng ham muốn bám víu chỉ là một thứ nọc độc của tâm thức. Tuy nhiên Phật giáo rất cẩn thận và cũng nghĩ đến một trường hợp khác là ham muốn khát vọng, tức là một yếu tố tâm thần tương tợ với ý nghĩa ham muốn thúc đẩy của người Tây phương. 

Tính dục tự nó không có gì để chê trách, chính tâm thức mới là những gì phải lên án khi nó bị lạc thú làm mù quáng và biến nó thành một mảnh đất thuận lợi giúp các thứ nọc độc tâm thần phát sinh. Tính dục là một thể dạng trao đổi giữa hai con người mang lại cơ hội thuận lợi giúp cho họ đón nhận nhau, chỉ khi nào có sự chiếm hữu, thèm khát quá đáng và ham muốn thỏa mãn xen vào thì khi đó tính dục mới trở thành ích kỷ và làm phát sinh khổ đau. Đấy là thông điệp chính yếu của Phật giáo về vấn đề tính dục.

 

 

Phật giáo không quan tâm đến việc nối dõi tông đường hay hôn phối vì đấy chỉ là các thể dạng trói buộc trong cuộc sống, các mối tương giao giữa con người và sự khống chế của sinh lý. 

Dưới nhãn quan Phật giáo, hôn nhân không mang tính cách thiêng liêng, không cần đến các lễ nghi ban phép lành. Giáo lý nhà Phật chỉ đòi hỏi có sự tương kính, hy sinh cho nhau và tránh mọi hung bạo. Phật giáo không hề xem thân xác và thế giới này là những gì xấu xa, Đức Phật chủ trương trung đạo, bác bỏ mọi hình thức khổ hạnh và hành xác, giữ đúng vị thế giữa hai thái cực, một bên là đời sống thế tục, một bên là sự khắc nghiệt của khổ hạnh, sự khắc nghiệt ấy chỉ đày đoạ thêm cho thân xác mà không mang lại một sự giải thoát nào. 

Ý thức được bổn phận của mình tức là cách giữ gìn đạo đức tính dục, hôn nhân không phải là một sự chiếm đoạt. Đối với những người chưa thấu triệt đạo lý, đời sống tính dục sẽ biến thành động cơ chính yếu thúc đẩy sự vận hành của khổ đau trong chu kỳ hiện hữu (thế giới ta-bà). Dựa trên quan điểm đó người Phật tử tại gia phải biết kính trọng mình và người khác; còn người tu hành, khi đã xa lánh cuộc sống thế tục, phải tuyệt đối tránh các hành vi tính dục.  

Thế nhưng Phật giáo Đại thừa có vẻ cởi mở hơn so với sự khắt khe của Phật giáo Nguyên thuỷ. Trong học phái Tantra thừa, tính dục được chuyển thành một hình thức tập luyện Du-già (Yoga) và được xem như là một phương pháp mang lại giác ngộ. Nói chung, Phật giáo giữ một thái độ phóng khoáng đối với vấn đề tính dục.


Theo Philippe Cornu

 

 

coitaba.net

Ý KIẾN ĐỘC GIẢ

KẾT NỐI TRÍ TUỆ

CÕI TA BÀ - SỐNG CHẾT VÀ TÁI SINH
Cẩm nang cho cuộc sống

Phóng hạ đồ đao / Lập địa thành Phật
Biển khổ vô biên / Quay đầu là bờ

Liên hệ: [email protected]